Vào cái buổi trưa hè
oi ả ấy, tôi đang chăm sóc chú chim chào mào mới bẫy được thì thằng Tâm sún hớt
hải chạy đến. Nó vừa nói vừa thở:
- Đã có người mua
nhà bà cụ Sinh rồi mày ạ. Họ đang dọn đến đấy. Mau tới đó xem đi.
Tôi vội vàng treo
chiếc lồng chim lên cành nhãn trước sân rồi chạy theo thằng Tâm sún.
Nhà cụ Sinh ở tận
cuối làng, gần dãy núi Đá Xanh. Cụ sống độc thân, cứ lẩm cẩm suốt ngày nhưng
tốt bụng lắm. Lũ trẻ chúng tôi hay lẻn vào vặt trộm ổi trong vườn nhà cụ. Mỗi
lần bắt được quả tang cụ chỉ tru tréo lên một tẹo:
- Cha tổ chúng bay,
đừng có mà làm gẫy cành của tao đấy nhớ ! Rồi cụ để mặc chúng tôi bỏ chạy.
Hôm ấy thằng Tâm sún
phát hiện có buồng chuối chín trong vườn. Nó hẹn chúng tôi sau buổi học rẽ vào
“xin trộm” vài quả.
Y hẹn cả bọn nấp ở
ngoài cổng, chờ mãi không thấy bóng dáng bà cụ ra vào như mọi khi nên chúng tôi
bảo nhau men hàng rào vào vườn. Bỗng tôi nhìn thấy bà cụ nằm bất động bên bờ
giếng, mặt úp xuống vũng máu đã đọng khô trên đất. Tôi sợ hãi kêu toáng lên rồi
cả bọn ù té chạy bán sống bán chết. Người ta bảo cụ bị ngã, đập đầu vào thành
giếng.
Đứa cháu duy nhất
của cụ ở thành phố về lo tang lễ xong rồi treo biển bán nhà.
Cái biển cứ treo mãi, chẳng thấy ai hỏi han gì. Còn căn nhà
thì ngày càng xuống cấp, vườn tược tiêu điều dần.
Bọn học trò “nhất
quỷ nhì ma...” như chúng tôi mỗi lần đi qua còn thấy sởn gai ốc, vậy mà cũng có
người mua ư? Chắc họ không phải người vùng này...
Hai đứa chúng tôi
vừa đi vừa đoán già đoán non thì - kìa, trước cổng nhà cụ Sinh đã có đủ mặt lũ
trẻ trong làng, đang tò mò, ngó nghiêng.
Cái gia đình mới đến
này cũng chẳng khá giả gì hơn nhà cụ Sinh. Đồ đạc toàn những thứ tầm tầm, cũ
kĩ: một cái giường dẻ quạt mọt chân, một cái phản cũ mốc thếch, một bộ bàn ghế
gỗ tự tạo nham nhở, cục mịch, rồi nồi xoong, bát đĩa...trăm thứ bà rằn được
chứa trong hai cái thúng sứt cạp. Bên cạnh cửa ra vào chất mấy cái tải to đựng
chăn màn, quần áo thòi cả ra ngoài. Tôi liếc nhìn một lượt chỉ thấy có mỗi chiếc
hòm gỗ là đáng giá, hẳn toàn bộ của quý được đựng trong đó.
Gia đình họ có ba
con. Đứa trai cả có lẽ chạc tuổi tôi. Hai đứa sau là gái, cái bé út cứ khóc đòi
“măm măm” luôn mồm. Bà vợ người cũng cũ kĩ như đống đồ đạc. Bà vừa cầm cái chổi
dài quét sân, vừa gườm gườm canh chừng chúng tôi. Hình như bà sợ chúng tôi đánh
cắp cái gì đó trong đống của nả của bà. Riêng ông chủ thì hoàn toàn khác. Với
vóc dáng cao gầy, thanh tao và mái tóc quăn tự nhiên bềnh bồng lượn sóng, ông
như lạc lõng giữa vợ con và đống đồ đạc.
Thấy lũ trẻ chúng
tôi cứ đứng trố mắt ra đấy, ông thân thiện vẫy tôi:
- Này, các chú mày,
vào đây giúp ta một tay. Không hiểu tại sao lúc ấy tôi cảm thấy hãnh diện đến
thế. Tôi kéo tay thằng Tâm sún đến trước vị chủ nhà mới. Ông ấy chỉ vào cái
hòm, bảo:
- Nhờ hai chú mày
khuân nó đặt lên cái ghế kia giúp ta.
Chẳng biết trong hòm
có những gì mà nặng như cái cùm. Hai đứa tôi khệ nệ cố sức nâng nó đặt lên ghế
thì bất thần nó đổ nghiêng ra, trút xuống đất toàn sách vở, giấy tờ. Tôi hoảng
quá cuống cả chân tay nhưng ông chủ chỉ mỉm cười rồi nhẹ nhàng an ủi:
- Không sao, sách vở
có vỡ được đâu mà sợ. Nhưng toàn là sách văn thơ cả đấy. Hay lắm. Khi nào rảnh
cứ đến đây ta sẽ cho thưởng thức.
Từ trong sâu thẳm
lòng tôi bỗng nảy sinh một tình cảm tin yêu, quý mến với người chủ mới của cái
cơ ngơi cũ nát này.
Người ta gọi ông là
thầy Trình. Nghe nói trước đây ông là giáo viên cấp hai nhưng vì cái tội hay
làm thơ tình, mà thơ lại cứ buồn buồn, sợ ảnh hưởng không tốt đến tư tưởng học
sinh, nhà trường không bố trí cho ông dạy học nữa. Bị chuyển sang làm văn thư
nên ông bất mãn, bỏ việc.
Chúng tôi cũng gọi
ông là thầy. Đang được nghỉ hè nên tôi hay rủ các bạn đến nhà thầy chơi, hộ
thầy vài ba việc vặt còn thầy thường giúp chúng tôi giải những bài toán khó,
hướng dẫn làm các bài văn. Thầy giảng thật hấp dẫn và dễ hiểu. Nhờ có thầy kèm
cặp, chúng tôi học tiến bộ trông thấy. Thầy Trình đã thực sự trở thành người
thầy giáo tốt của chúng tôi.
Những đêm sáng
trăng, chúng tôi hay tụ tập nghe thầy đọc thơ. Thầy đặc biệt yêu thích những
bài thơ tình của Xuân Diệu. Ngày ấy chúng tôi còn ngây ngô chưa biết yêu là gì
nên đâu hiểu được ý nghĩa của những câu thơ. Song, nhìn dáng vẻ trịnh trọng,
say sưa của thầy, chúng tôi tin chắc rằng đó là những câu thơ hay nhất trần
đời.
Thầy là người rất
tài hoa, không những làm thơ hay mà còn giỏi kẻ vẽ, viết chữ nho, sửa chữa đài
điện, thậm chí còn biết lái cả công nông, máy kéo.
Có lần, chiếc máy
cày của hợp tác xã bị hỏng, nằm phơi mình ngoài cánh đồng hàng tuần lễ. Ban
quản trị đón thợ về sửa chữa nhưng không tìm ra bệnh, phải bó tay. Thấy thế,
thầy đề nghị:
- Để tôi thử xem
sao.
Chưa đầy một buổi
sáng, thầy đã phát hiện được chỗ hỏng hóc và máy lại hoạt động ầm ầm. Mừng quá,
hợp tác xã thưởng cho thầy 20 kg gạo.
Rồi một lần khác,
chiếc đài bán dẫn của hợp tác xã dùng để nghe dự báo thời tiết bỗng dưng bị
hỏng. Ông phó chủ nhiệm mời thợ trên phố về sửa. Cơm bưng, nước rót cho thợ hai
ngày mà máy vẫn hoàn câm. Khi tìm đến thầy thì thầy vẫn khiêm nhường: “Để tôi
thử xem sao”. Và thầy đã “thử” thành công: chiếc đài lại oang oang cất tiếng.
Trong thời điểm
chiến tranh ác liệt, đâu đâu cũng quán triệt khẩu hiệu:
“Gạo không thiếu một cân/ Quân không thiếu
một người”
Những lớp trai tráng
quê tôi lần lượt lên đường nhập ngũ. Biết thầy là người hay thơ nên các cô gái
trong làng thường nhờ thầy làm thơ kỉ niệm bạn trai lên đường ra tiền tuyến.
Thông cảm với nỗi lòng của đôi lứa, thầy vui vẻ nhận giúp. Nhưng không may, có
một bài thơ lại lọt vào tay cán bộ. Thầy bị gọi lên trụ sở ủy ban xã. Bài thơ
bị đưa ra chất vấn, trong đó đại loại có những câu:
“...Nhớ ơi, sao nhớ cồn cào/ Cố vui sao lệ tuôn
trào tim đau
Phải xa lòng chẳng rời
nhau/ Bao giờ Ô Thước bắc cầu để sang?...”
Người ta quy cho
thầy cái tội tuyên truyền không công cho địch, làm nản lòng chiến sĩ, làm giảm
sút ý chí tiến công, v.v...
Không hiểu thầy đã
lí sự ra sao mà bị giam mất một tuần. Khi vợ con tất tả mang cơm tiếp tế, thầy
hồn nhiên bảo:
- Nhà nó và các con
cứ yên tâm, tôi ở đây vẫn ổn. Chỉ tiếc là không có cây bút với quyển sổ để làm
thơ khỏi phí thời gian. Nghe đến đây, vợ thầy mếu máo rồi tru tréo lên:
- Ối giời ơi là
giời, người ta bảo nhất nhật tại tù, thế mà ông lại thích ở tù để làm thơ ư?
Ông dở hơi mất rồi!
Biết chuyện, tôi
thương thầy quá, vội xé mấy tờ giấy trong vở học cuộn vào cây bút chì rồi tìm
cách nhét qua khe liếp cho thầy. Không ngờ, việc làm của tôi lại hại thầy.
Người ta phát hiện thầy vẫn “sản xuất” thơ, không chịu hối cải lỗi lầm nên tiếp
tục bị giam thêm một tuần lễ nữa và cấm tiệt không cho gặp người nhà.
Trong thời bao cấp,
cuộc sống của người dân quê tôi nói riêng và cả nước nói chung đều khó khăn,
gian khổ nhưng với gia đình thầy, cái khó, cái khổ còn tệ hại hơn nhiều vì năm
miệng ăn trong nhà chỉ chủ yếu trông chờ vào đôi vai chợ búa tần tảo của vợ
thầy. Còn thầy, mặc dù tài hoa đấy nhưng cũng chỉ có thể kiếm tiền vào các dịp
lễ tết. Thầy viết câu đối trên giấy hồng điều rất tuyệt. Thầy vẽ tranh ông công
ông táo, con lợn, con gà trên giấy gió thật khéo, bắt mắt mọi người nên hầu như
ai qua hàng của thầy cũng mua một vài tờ về treo tết cho vui cửa, vui nhà. Món
tiền kiếm được đã giúp gia đình thầy tạm ung dung trong mấy ngày tết để tiếp đón
các bạn thơ của thầy. Vào những dịp như thế, thầy hay gọi tôi đến cùng với Tùng
- con trai thầy, hầu trà, rượu cho khách.
Khi an nhàn cùng
khách, tôi thấy thầy như lột xác thành một người khác: lịch lãm, trẻ trung và
hóm hỉnh nữa. Tôi cứ ước có thật nhiều ngày vui như thế để thầy tôi đỡ khổ.
Nhưng có một cái tết
nhà thầy đóng cửa im ỉm. Tôi tưởng thầy ốm đến thăm thì nghe vợ thầy rền rĩ,
trách móc trong nhà. Hóa ra không phải thầy ốm. Tết ấy thầy cũng kiếm được khá
nhiều tiền nhưng trên đường về nhà, gặp bà cụ ăn mày, động lòng trắc ẩn, thầy
móc túi lấy tiền biếu bà cụ. Chẳng may bọn lưu manh nhìn thấy, chúng xông vào
cướp hết tiền bạc còn xô thầy ngã đập đầu xuống đường.Từ đó thầy sinh ra lẩn
thẩn, suốt ngày cứ lẩm nhẩm đọc thơ.
Thời gian trôi đi,
lớp chúng tôi như đàn chim tung cánh khắp bốn phương trời. Nhiều đứa đã trưởng
thành, đỗ đạt. Tôi cũng đã có vợ con, làm việc và sinh sống ở xa quê hương. Tết
năm ấy tôi bố trí về thăm nhà. Vẫn nhớ thầy Trình, tôi chuẩn bị ít quà đến chúc
tết thầy nhưng thật bất ngờ: Trên nền nhà rách nát khi xưa nay mọc lên một ngôi
hai tầng khang trang quá. Tôi đang đứng phân vân trước cổng thì một vị ăn mặc
lịch sự có phần chải chuốt từ trong nhà đi ra. Một phút ngỡ ngàng sau bao năm
xa cách, chúng tôi đã nhận ra nhau. Tùng - con trai của thầy xúc động nắm chặt
tay tôi dẫn vào nhà. Sau khi dâng nén hương thơm lên ban thờ thầy, Tùng kéo tôi
ra bàn nước rồi chậm rãi kể:
- Ông cụ nhà mình bị
chấn thương sọ não từ cái ngày bị bọn cướp tiền xô ngã. Cụ quên hết mọi chuyện,
duy chỉ có thơ là vẫn nhớ. Cụ cứ lang thang bảo là đi gặp bạn thơ rồi chẳng may
va vào cái xe đầu ngang đầu dọc gì ấy.Khi từ giã cõi đời này, trên tay ông cụ
vẫn còn nắm chặt một tờ thơ, và trong túi áo ngực vẫn thường trực một cây bút
bi. Nửa năm sau, mẹ mình buồn phiền, đổ bệnh rồi qua đời.
Mình hiện đang làm
ăn bên Nga. Hai cô em đều đã trưởng thành. Vật chất bây giờ đã đầy đủ nhưng
những kỉ niệm về một thời khốn khó vẫn luôn ám ảnh. Mình quyết định xây căn nhà
này làm nơi thờ tự. Hàng năm, anh em, con cháu quần tụ về đây xem như một sự
tri ân, an ủi vong linh các cụ - thế hệ cả một đời hi sinh,nhọc nhằn lo bát cơm
manh áo nuôi đàn con khôn lớn nên người.
Rồi bất chợt Tùng
đứng dậy, đôi mắt xa xăm mà lấp lánh - hệt như đôi mắt của thầy khi thả hồn vào
thơ. Tùng nói:
- Cậu biết không,
đợt này về nước, mình quyết định đi tìm gặp bạn bè và những người quen biết ông
cụ để sưu tầm những bài thơ mà ông cụ đã mê mẩn sáng tác trong khắc khoải, yêu
thương và bất hạnh.
Tôi đã thực sự vui
sướng khi được trao lại cho Tùng những tác phẩm của thầy sau bao năm lưu giữ.
Nhờ được sự nhiệt
tình giúp đỡ của những người từng quý mến thầy, chưa đầy một năm sau, Tùng đã
hoàn thành tập thơ Di Cảo của cha mình với tựa đề có phần ngồ ngộ: VẠ THƠ.
Ngày giỗ thầy năm ấy
tôi cũng có mặt, chứng kiến lễ dâng tập thơ - niềm khát vọng cả cuộc đời thầy -
nay đã thành hiện thực.
Để tưởng nhớ và tỏ
lòng ngưỡng mộ một hồn thơ, một người thầy, tôi kính cẩn dâng thầy mấy câu thơ
như sau:
Người hiện về từ trang di cảo
Tóc như mây Non Tản bềnh bồng
Hồn thơ còn quặn thắt thương tâm
Tự lòng đã dấn thân làm thi sĩ
Thì chút ấy có gì đáng kể
Gọi cay đắng về làm tri kỉ
Gạn đau đời thành vị nhâm nhi
Và nhủ thầm: hãy cứ uống đi
Là tinh túy - những gì chưng cất
Người say thường nói những điều chân
thật
Chất men đời bỗng bật thành thơ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét